- Cổ Phong
- Dữ Sử Lang Trung Ẩm Thính Hoàng Hạc Lâu Thượng Xuy Địch
- Đảo Y Thiên
- Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài
- Đinh Đô Hộ Ca
- Độc Toạ Kính Đ́nh San
- Đối Tửu
- Há Chung Nam Sơn, Quá Hộc Tư Sơn Nhân Túc, Trí Tửu
- Hiệp Khách Hành
- Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng
- Kim Lăng Tửu Tú Lưu Biệt
- Kư Viễn
- Lao Lao Đ́nh
- Lục Thủy Khúc
- Mạch Thượng Tặng Mỹ Nhân
- Ngô Vương Vũ Nhân Bán Túy
- Ngọc Giai Oán
- Nguyệt Hạ Độc Chước I, II
- Oán T́nh
- Quan Sơn Nguyệt
- Song Yến Ly
- Sơn Trung Vấn Đáp
- Tái Hạ Khúc I
- Tái Hạ Khúc II
- Tái Hạ Khúc III
- Tái Hạ Khúc IV
- Tái Hạ Khúc V
- Tái Hạ Khúc VI
- Tảo Phát Bạch Đế Thành
- Tặng Uông Luân
- Tĩnh Dạ Tứ
- Thanh B́nh Điệu I
- Thanh B́nh Điệu II
- Thanh B́nh Điệu III
- Thái Liên Khúc
- Thính Thục Tăng Tuấn Đàn Cầm
- Thu Tịch Lữ Hoài
- Thục Đạo Nan
- Thượng Giang Ngâm
- Tô Đài Lăm Cổ
- Tống Hữu Nhân
- Trào Lỗ Nho
- Trường Can Hành I
- Trường Can Hành II
- Trường Tương Tư I
- Trường Tương Tư II
- Tu Biên
- Tương Tiến Tửu
- Tử Dạ Tứ Thời Ca
- Tuyên Châu Tạ Thiếu Lâu Tiễn Biệt Hiệu Thư Thúc Vân
- Ức Đông Sơn
- Ức Tần Nga
- Việt Trung Lăm Cổ
- Vọng Lư Sơn Bộc Bố
- Vương Chiêu Quân
- Xuân Dạ Lạc Thành Văn Địch
- Xuân Nhật Độc Chước
- Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn Chí
- Xuân Tứ
Thông báo
Collapse
No announcement yet.
Thi Tiên- Lư Bạch
Collapse
X
-
Thi Tiên- Lư Bạch
Tags: None
-
Lư Bạch
TIỂU TRUYỆN LƯ BẠCH
Lư Bạch sinh năm đầu niên hiệu Trường An (701) , đời Đường Trung Tông , và mất vào năm đầu niên hiệu Bảo Ứng (762) , đời Đường Đại Tông , Cùng tuổi với Vương Duy , nhiều hơn Đổ Phủ mười hai tuổi , Sầm Than 14 tuổi . Nhân có truyền thuyết nói bà thân mẫu nằm mộng thấy sao Trường Canh rồi sinh ra ông , nên ông lấy tự là Thái Bạch .
Theo lời ông tự thuật, Lư Bạch là hậu duệ của danh tướng Lư Quăng đời Hán, và là cháu chín đời của vua Vũ Chiêu Vương nước Lương . Cuối đời Tùy ( khoảng năm 616), thân phụ ông v́ một chuyện nào đó phải trốn sang Tây Vực . Lư Bạch sinh tại đây trong lúc Vơ tắc Thiên cướp ngôi nhà Đường . Sau khi triều Vơ hậu sụp đổ , gia đ́nh ông trở về nội địa , làm nghề buôn bán , ngụ tại làng Thanh Liên ( huyên Chương Minh , tỉnh Tứ Xuyên). Thân mẫu ông là người Tây Vực , người ta thường gọi là " Man Bà ". V́ thuở nhỏ sống tại Tây Vực, Lư Bạch thông hiểu chữ Tây Vực . Nhờ khả năng này , Lư Bạch sau này có lần giúp vua Đường Minh Hoàng thảo tờ thư trả lời rợ Phiên ( Đáp Phiên thư ) .
Lư Bạch rất thông minh đỉnh ngộ : lên 5 tuổi, biết đọc Lục giáp; lên 10 tuổi , thông hiểu Thi ,Thư , thường xem sách Bách gia . Năm 15 tuổi thích kiếm thuật , thường làm các bài văn mô phỏng cổ nhân , như tờ thư gởi Hàn Kinh châu , bài phú ngạo Tư mă Tương Như . Năm 16 tuổi ông cùng Đông Nham Tử đến ở ẩn tại phía Nam núi Dân Sơn ( ở huyện Tùng Phan , tỉng Tứ Xuyên ) Năm 20 tuổi ông được tiếng là người hào hiệp , cao nghĩ, thích làm hiệp sĩ . Đến xin làm việc dưới trướng của Thứ sử Ích châu Tô Dĩnh , được họ Tô khen là " có thiên tài anh lệ , nếu học rộng thêm có thể sánh vai với Tư Mă Tương Như ".
Năm 723 , Lư Bạch cùng người bạn là Ngô chỉ Nam đi chơi đất Sở , đến Thương Ngô, Động Đ́nh . Sau lại qua Kim Lăng, vượt Minh Hải, đến Nhữ Châu, du lịch các thắng địa miền đông nam trong mấy năm .
Năm 726 , Lư Bạch đến Vân Mộng ( huyện An Lục tỉnh Hồ Bắc), cưới vợ, là cháu gái của Hứa tướng công . Từ năm 30 tuổi tiếng tăm văn chương bắt đầu vang dậy .
Năm 735 (năm thứ 23 niên hiệu Khai Nguyên ), Lư Bạch lên chơi vùng Thái Nguyên (tỉnh Sơn Tây). Khi ấy Quách Tử Nghi đang bị giam trong quân ngũ , nhờ có ông xin cho mà được tha . Tháng 5, ông đến miền Tế, Lỗ, ngụ tại Nhiệm thành ( tỉnh Sơn Đông). Cùng Khổng Sào Phủ , Hàn Chuẩn , Bùi Chính, Đào Cái , Trương Thúc Minh ngao du tại núi Tồ Lai ( huyện Thái An tỉnh Sơn Đông), say sưa tại Trúc Khê , lấy hiệu là " Trúc Khê lục dật " ( sáu nhà ẩ dật tại Trúc Khê ) .
Như vậy có thể nói đại khái từ năm 40 tuổi trở về trước, Lư Bạch sống những ngày tiêu dao, nhàn tản , ngao du thiên hạ
Năm đầu niên hiệu Thiên Bẳo (742) Lư Bạch đi chơi Cối Kê , cùng với đạo sĩ Ngô Quân ngụ tại Viễm Trung ( tỉnh Chiết Giang). Khi Ngô Quân được triệu về Trường An, bèn đem Lư Bạch đi theo . Tại kinh đô Lư Bạch gặp Hạ Tri Trương , lúc này đang làm chức Thái Tử tân khách . Thoạt trông thấy ông , Hà Tri Trương nói rằng : " Đây là một trích tiên giáng trần". Lư Bạch và Hà Tri Trương trở nên đôi bạn rượu thơ . Nhờ sự tiến cử của Hà Tri Trương , Lư Bạch được Đường Huyền Tông triệu vào bệ kiến tại điện Kim Loan , bàn về thế vụ đương thời , nhân dịp nào ông thảo tờ " Đáp Phiên thư ", và dâng thiên " Tuyên Đường hồng do ", được vua khen ngợi . Vua cho ngồi trên giường thất bảo , lại thân đưa canh cho ăn . Rồi hạ chiếu nói rằng :" Khanh là kẻ áo vải , được trẩm biết tiếng ; nếu không phải là vốn đă chất chứa đạo nghĩa , th́ làm sao được như vậy !"; và phong Lư Bạch làm học sĩ cung phụng tại Hàn Lâm , chuyên trách về mệnh lệnh mật . Thời ḱ này là thời ḱ vinh hiển nhất trong đời Lư Bạch .
Tại Trường An , Lư Bạch kết bạn với Hạ Tri Trương . Thôi Tông Chi , Vương Tiến , Tô Tấn , Trương Húc , Tiêu Toại , Lư Thích Chi , hiệu là " Tửu Trung Bát Tiên " ( tám vị tiên trong rượu ). Bài " Ẩm trung bát tiên ca " của Đổ Phủ , nói về Lư Bạch có câu :
Lư Bạch nhất đẩu thi bách thiên,
Trường An thị thượng tửu gia miên;
Thiên tử hô lai bắt thướng thuyền ,
Tự xưng thần thị tửu trung tiên .
Lư Bạch một đấu , thơ trăm thiên
Ngủ trong quán rượu tại Trường An;
Thiên tử kêu tới chẳng lên thuyền ,
Tự xưng thần là tiên trong rượu
Các sách cũ thuật lại nhiều trường hợp Lư Bạch vâng lệnh vua thảo chiếu hay soạn nhạc từ trong lúc c̣n đang say .
Trích Đường Thi của Trần Trọng San ( c̣n tiếp )
-
tiếp theo
Sách Dậu Dương Tạp Trở của Đoàn Thành Thức chép rằng : Vua Huyền Tông nghe danh Lư Bạch vang lừng hải nội, liền cho triệu vào bệ kiến . Thấy ông thần khí cao lăng , nhẹ nhàng như ráng mây, vua bất giác quên ḿnh là đấng chí tôn vạn thặng . Nhân thấy vua đi giày mới , Lư Bạch liền giơ chân cho Cao Lực Sĩ bảo cởi giày . Cao Lực Sĩ phải làm theo lời .
Về sau chính v́ ôm mối hận này, Cao Lực Sĩ đă đem hai câu trong bài " Thanh B́nh Điệu " ra gièm với Dương Quí Phi là Lư Bạch có ư muốn ví Quí phi với nàng Triệu Phi Yến , một cung nhân thất sủng đời nhà Hán . Quí phi cả giận . V́ thế Minh Hoàng đôi lần định phong quan chức cho Lư Bạch , nhưng điều bị ngăn trở ( theo Tùng song lục của Vi Duệ ). Thực ra nguyên nhân khiến Lư Bạch không hiển phát được tại Trường An c̣n là sự dèm pha của Trương Kư nữa ( theo bài tự của Ngụy Hạo).
Nhận thấy không thể đắc ư tại Trường An . Lư Bạch bèn xin về , và được Minh Hoàng ban tặng nhiều vàng bạc .
Từ năm 747( 45 tuổi), Lư Bạch ngao du bốn phương, phía Bắc đến các miền Triệu, Ngụy, Tề, Tần; phía Tây tới các đất Bân, Kỳ, Thương, Ư và Lạc Dương; phía nam đi chơi sông sông Hoài sông Tứ , rồi lại vào Cối Kê (tỉnh Chiết Giang). Nhân gia đ́nh ở đất Lỗ ( tỉnh Sơn Đông ) , nên Lư Bạch thường đi lại miền Tế , Lỗ . Trong thời gian 10 năm ( 745 - 755 ), ông đi chơi nhiều nhất tại các miền Lương , Tống ( tỉnh Hà Nam ). Chính trong thời ḱ này , ông quen biết Đổ Phủ , Cao Thích và Sầm Tham .
Năm 755 ( năm thứ 14 niên hiệu Thiên Bảo ), Lư Bạch đi chơi Quăng Lăng ( tỉnh Giang Tô ), gặp Ngụy Hạo . Hai người cùng nhau đi thuyền vào sông Tần Hoài , lên Kim Lăng . Rồi từ biệt Ngụy Hạo , Lư Bạch đi Tuyên Thành ( tỉnh An Huy ). Sau đi xuống phía Nam , đến Lật Dương , Viễm Trung ( tỉnh Chiết Giang), rồi vào núi Lư Sơn ( huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), ở ẩn tại B́nh Phong Điệp . Tháng 11 năm này, An Lộc Sơn làm phản .
Năm 756 ( Chí Đức nguyên niên , đời Đường Túc Tông), An Lộc Sơn vây hăm hai kinh . Vĩnh vương Lân , con thứ 16 của Huyền Tông, làm Giang Lăng đô đốc , sung tiết độ sứ các đạo Sơn Nam đông lộ . Lĩnh Nam Kiềm Trung và Giang Nam tây lộ . Trọng tài danh của Lư Bạch , Vĩnh Vương mời ông tới làm liêu tá trong phủ . Khi Lư Lân làm phản , tự đem thuyền đi xuống phía đông, Lư Bạch cũng bị bức bách đi theo .
Năm 757 , tháng 2, Vĩnh vương Lân bại trận , Lư Bạch chạy đến Bành Trạch trần thú , rồi bị giam tại ngục Tầm Dương ( huyện Cửu Giang , tỉnh Giang Tây ) Tuyên úy đại sứ Thôi Chi Hoán và ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư cố sức xin tha cho Lư Bạch . Nhược Tư c̣n tự phóng thích Lư Bạch, cho làm tham mưu quân sự, lại dâng thư tiến cử lên vua , nhưng không được trả lời . Lư Bạch vẫn bị kết tội theo Lân làm phản và khép án tử h́nh . May được Quách Tử Nghi , nay đă là tướng có công dẹp giặc , nhớ ơn xưa, xin giải quan chuộc tội cho, Lư Bạch mới được giảm xuống tội đi đày .
Năm 758 ( Càn nguyên nguyên niên ), Lư Bạch bị phát văng đi Dạ Lang ( huyện Đồng Tử, tỉnh Quí Châu). Trên đường đi đày , có qua hồ Động Đ́nh ( tỉnh Hồ Nam ), lên Tam Giáp ( khoảng Tứ Xuyên, Hồ Bắc ).
Năm 759, vào cuối mùa xuân, khi đến Vu Sơn ( tỉnh Tứ Xuyên), Lư Bạch nhận được sắc tha tội .
Khứ niên tả thiên Dạ Lang đạo,
Kim niên sắc phóng Vu Sơn dương .
(Bệnh tửu qui kư Vương minh phủ )
Năm ngoái bị đày xuống đường đi Dạ Lang,
Năm nay được sắc tha ở phía Nam núi Vu sơn ,
Từ Vu Sơn Lư Bạch đi đến Hán Dương ( tỉnh Hồ Bắc ).
Năm 760, Lư Bạch về đến Trường Phong Sa, ở Tŕ châu, phủ An Khánh (tỉnh An Huy). Vương Duy mất vào năm này .
Năm 761, lại đến Kim Lăng, Tuyên Thanh , Lịch Dương ...., sống phóng đăng , ngông cuồng . Có gặp lại Ngụy Hạo ở Tuyên Thành ( tỉnh An Huy ).
Năm 762 ( Bảo Ứng nguyên niên ), Lư Bạch đến ở nhà người họ là Lư Dương Băng , đang làm huyện lệnh tại Đang Đồ ( tỉnh An Huy ). Tháng 4 năm này, vua Đại Tông lên ngôi, có ư triệu Lư Bạch , phomg làm chức thập di. Nhưng đến tháng 11 Lư Bạch mắc bệnh nặng tại Đang Đồ ( theo Lư Dương Băng); mất ở núi Thanh Sơn , ngoài thành huyện này ( theo Phạm Truyền Chính ) . Thọ 62 tuổi .
Có những thuyết khác nói rằng Lư Bạch không phải v́ mắc bệnh mà mất ( Lư Hoa , Ngụy Hạo ), Ngụy Hạo c̣n cho biết rơ ràng ông chết trong đầm nước .
Đến thời Ngũ Đại , Vương Định Bảo soạn sách Chích ngôn , mới viết rằng : " Lư Bạch mặc áo gấm trong cung , chơi trong sông Thái Thạch ( Ở huyện Đang Đồ ), ngạo nghễ tự đắc , xem như không có ai bên cạnh ; nhân say , nhảy vào nước, bắt bóng trăng rồi chết ". Về sau Hồng Dong Trai phụ hoạ thuyết đó , nói thêm : " .... V́ thế nơi ấy có Tróc nguyệt đài ( đài Bắt Trăng ) ".
Về gia đ́nh , Lư Bạch có đến 4 đời vợ , sinh được 3 con trai , 1 con gái .
Sau khi Lư Bạch mất , Lư Dương Băng thâu thập thơ ông , thấy rằng trong số hai vạn bài thơ ông làm lúc sinh tiền, chỉ c̣n lại một phần mười . Những bài thơ ông làm trong khoảng 8 năm sau loạn An Lộc Sơn phần nhiều bị thất lạc . Ông vốn không thích lưu giữ và truyền bá thơ văn . Đến đời Tống ( 1080 ), Tống Măn Cầu gom góp lại được , soạn thành Lư Bạch thi tập, 30 quyển, gồm 1800 bài .
Theo Thơ Đường của Trần Trọng San
Comment
-
HIỆP KHÁCH HÀNH
Triệu khách mạn hồ anh,
Ngô câu sương tuyết minh .
Ngân an chiếu bạch mă,
Táp nạp như lưu tinh .
Thập bộ sát nhất nhân ,
Thiên lư bất lưu hành .
Sự liễu phất y khứ ,
Thâm tàng thân dữ danh .
Nhàn quá Tín lăng ẩm,
Thất kiếm tất tiền hoành .
Tương chích đạm Châu Hợi
Tŕ Trường khuyến Hầu Doanh .
Tam bôi thổ nhiên nặc
Ngũ nhạc đảo vi khinh .
Nhăn hoa nhĩ nhiệt hậu,
Ư khí tố nghê sinh .
Cứu Triệu huy kim chùy,
Hàm Đan tiên chấn kinh .
Thiên thu nhị tráng sĩ
Huyên hách Đại Lương thành .
Túng tử hiệp cốt hương,
Bất tàm thế thượng anh .
Thùy năng thư các hạ,
Bạch thủ Thái huyền kinh .
Hiệp Khách Hành
Khách nước Triệu phất phơ giải mũ ,
Gươm Ngô câu rực rỡ tuyết sương .
Long lanh yên bạc trên đường,
Chập chờn như thể muôn ngàn sao bay .
Trong mười bước giết người bén nhạy,
Ngh́n dặm xa vùng vẫy mà chi .
Việc xong rũ áo ra đi ,
Xoá nḥa thân thế, kể ǵ tiếng tăm .
Rảnh rang tới Tín Lăng uống rượu,
Tuốt gươm ra , kề gối mà say .
Chả kia với chén rượu này,
Đưa cho Châu Hợi, chuốc mời Hầu Doanh .
Ba chén cạn, thân ḿnh xá kể !
Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng
Bừng tai , hoa mắt chập chùng,
Mống tuôn hào khí mịt mùng trời mây .
Chùy cứu Triệu vung tay khảng khái,
Thành Hàm Đan run rẩy , kinh hoàng .
Ngh́n thu tráng sĩ hai chàng ,
Tiếng tăm hiển hách, rỡ ràng Đại Lương .
Thân dù thác, thơm xương nghĩa hiệp;
Thẹn chi ai hào kiệt trên đời .
Hiệu thư dưới gác nào ai ?
Thái huyền , trắng xoá đầu người chép kinh .
Bản dịch của Trần Trọng San
Comment
-
Mạch Thượng Tặng Mỹ Nhân
Tuấn mă kiêu hành đạp lạc hoa ,
Thùy tiên trực phất ngũ vân xa .
Mỹ nhân nhất tiếu niêm châu bạc ,
Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia .
Tặng Người Đẹp Trên Đường
Nghênh ngang ngựa giẫm hoa rơi;
Buông roi,chạm phải xe hoa năm màu .
Mỹ nhân cười hé rèm châu ,
Chỉ xa: nhà thiếp là lầu hồng kia .
Bản dịch Trần trọng San
Comment
-
Việt Trung Lăm Cổ
Việt vương Câu Tiễn phá Ngô qui ,
Nghĩa sĩ hoàn gia tận cẩm y .
Cung nữ như hoa măn xuân điện ,
Chỉ kim duy hữu chá cô phi
Lư Bạch
Xem Cảnh Cũ Nước Việt
Phá Ngô, vua Việt khải hoàn,
Chinh phu áo gấm vẽ vang về nhà .
Điện xuân cung nữ như hoa ,
Giờ đây chỉ có bầy gà rừng bay .
Bản dịch Trần Trọng San
Comment
-
TÔ ĐÀI LĂM CỔ
Cựu uyển, hoang đài, dương liễu tân,
Lăng ca thanh xướng bất thăng xuân !
Chỉ kim duy hữu Tây Giang nguyệt,
Tằng chiếu Ngô Vương cung lư nhân.
Lư Bạch
THĂM DẤU CŨ ĐÀI CÔ-TÔ
Đài hoang, vườn cũ, liễu c̣n tơ,
D́u dặt lăng ca giọng gió đưa.
Nay chỉ Tây Giang vừng nguyệt tỏ,
Từng soi người ngọc điện vua Ngô.
TÙNG VÂN dịch
Động lư hữu thiên xuân tịch tịch
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang
Comment
-
TỐNG HỮU NHÂN
Thanh sơn hoành bắc quách,
Bạch thủy nhiễu đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lư chinh.
Phù vân du tử ư.
Lạc nhật cố nhân t́nh.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mă minh.
Dịch nghĩa :
Rặng núi xanh vắt ngang ải bắc.
Ḍng sông trắng lượn quanh thành đông.
Một lần từ biệt đất này,
bạn như cỏ bồng lẻ loi đi xa muôn dặm.
Ư du tử ví như đám mây trôi chóng tan.
T́nh cố nhân giống như mặt trời lặn.
Bạn vẫy tay ra đi từ nay.
Tiếng con ngựa ĺa đàn nghe rất buồn thương
Tiễn Bạn
Núi ngang ải bắc xanh xanh,
Ḍng sông trăng trắng lượn quanh đông thành.
Lần này từ biết đất lành,
Cỏ bồng muôn dặm một ḿnh xa xôi
Ư du tử : đám mây trôi ;
T́nh cô nhân : bóng mặt trời chiều hôm
Bạn đi tay vẫy hiu buồn,
Ĺa đàn ngựa hí đau ḷng từ đâyNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
OÁN T̀NH
Mỹ nhân quyển châu liêm
Thâm tọa tần nga my
Đăn kiến lệ ngân thấp
Bất tri tâm hận thùy
Mối T́nh Oán Hận
Người xinh cuốn bức rèm châu
Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày
Chỉ hay giọt lệ vơi đầy
Đố ai biết được ḷng này giận ai
Tản Đà dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
Há Chung Nam Sơn, quá Hộc Tư Sơn Nhân túc, trí tửu
Mộ ṭng bích sơn há,
Sơn nguyệt tùy nhân quy .
Khước cố sở lai kính,
Thương thương hoành thúy vi .
Tương huề cập điền gia,
Đồng trĩ khai kinh phi .
Lục trúc nhập u kính,
Thanh la phất hành y .
Hoan ngôn đắc sở khế,
Mỹ tửu liêu cộng huy .
Trường ca ngâm tùng phong,
Khúc tận hà tinh hy .
Ngă túy quân phục lạc,
Đào nhiên cộng vong ki .
Dịch nghĩa:
Xuống núi Chung Nam, ghé qua nhà Hộc Tư Sơn
Nhân ngủ đêm, bày cuộc rượu .
Chiều xuống theo màu núi biếc,
Ánh trăng trên non ngàn theo người đi về .
Ngoái nh́n lối nhỏ vừa đi qua,
Thấy giăng ngang một màu xanh xanh .
Cầm tay nhau đến nhà trong xóm ruộng.
Con trẻ mở chiếc cổng gỗ,
Trúc xanh dẫn vào lối đi thâm u .
Dây leo phơ phất chạm áo người đi .
Vui mừng nói được chỗ nghĩ ngơi .
Rượu ngon ,chén khoan chén nhặt .
Tiếng ca dài ḥa tiếng gió thông .
Hết khúc hát, ngân hà, tinh tú đă thưa thớt rời rạc .
Tôi say, anh được vui vẻ .
Hớn hở như nhiên quên hết chuyện đờiNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
KIM LĂNG TỬU TỨ LƯU BIỆT
Phong xuy liễu hoa măn điếm hương,
Ngô cơ áp tửu hoán khách thường.
Kim Lăng tử đệ lai tương tống,
Dục hành bất hành, các tận trường.
Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ,
Biệt ư dữ chi thùy đoản trường ?
THƠ LƯU LẠI ĐỂ TỪ BIỆT Ở QUÁN RƯỢU KIM LĂNG
Quán ngạt ngào hương gió liễu bay,
Cô hàng rượu đẹp ép người saỵ
Kim Lăng bạn trẻ ra đưa tiễn,
Kẻ ở người đi cạn chén đầỵ
Nhờ ai hỏi nước Trường Giang thử,
Nước ấy t́nh kia ai vắn dài ?
KHƯƠNG HỮU DỤNG dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI
Phượng hoàng đài thượng phượng hoàng du
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường an bất kiến sử nhân sầu
Lên đài Phượng Hoàng ở Kim Lăng
Phượng hoàng từng ghé trên đài Phượng
Phượng bỏ đài không nước chảy thâu
Hoa cỏ cung Ngô vùi lối kín
Mũ xiêm triều Tấn hóa g̣ lâu
Nửa rơi ba núi ngoài trời thẳm
Giữa tách đôi ḍng băi Lộ châu
Tất cả v́ mây che nổi sáng
Trường an chẳng thấy chạnh bao sầu
Đông A dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
NGỌC GIAI OÁN
Ngọc giai sinh bạch lộ ,
Dạ cửu xâm la việt .
Dục hạ thủy tinh liêm,
Linh lung vọng thu nguyệt .
Lư Bạch
Dịch nghĩa :
Nỗi oán nơi thềm ngọc
Sương trắng rơi bên thền ngọc ; đêm khuya , sương lan ướt bít tất lụa . Toan buông tấm rèm trong suốt như thủy tinh xuống , để ngắm bóng trăng thu trong trẻo .
Ngọc giai oán
Sương trắng phơi trên thềm ,
Đêm khuya lan dép lụa .
Toan rủ bức rèm thưa
Ngắm trăng thu sáng tỏ
Bản dịch Trần Trọng San
Comment
-
Ngô Vương Vũ Nhân Bán Túy
Phong động hà hoa thủy điện hương ,
Cô Tô đài thượng yến Ngô vương .
Tây Thi túy vũ kiều vô lực,
Tiếu ư đông song bạch ngọc sàng .
Lư Bạch
Dịch nghĩa
Người Múa Của Vua Ngô Trong Lúc Ngà Say
Gió rung động hoa sen, làm cho điện nước ngạt ngào thơm . Trên đài Cô Tô , vua Ngô mở tiệc , Nàng Tây Thi say sưa múa , ẻo lả như không có sức ; rồi ngă xuống giường ngọc trắng bên cửa số phía đông .
Người Múa Của Vua Ngô Trong Lúc Ngà Say
Gió động bông sen , ngát điện hương ;
Cô Tô vui mở tiệc Ngô vương .
Tây Thi ẻo lả ,say sưa múa
Cười đến bên song, ngă xuống giường .
Bản dịch Trần Trọng San
Comment
-
Lục Thủy Khúc
Lục thủy minh thu nguyệt
Nam hồ thái bạch tần
Hà hoa kiều dục ngữ
Sầu sát đăng chu nhân
Lư Bạch
Dịch nghĩa :
Khúc Hát Nước Trong
Mặt nước trong in bóng trăng thu sáng ; đi hái rau tần trắng ở hồ nam . Hoa sen xinh đẹp như toan cất tiếng nói, khiến cho người bơi thuyền buồn đến chết được .
Khúc Hát Nước Trong
Nước trong sáng tỏ trăng thu
Hái rau tần trắng , đến hồ nam chơi .
Hoa sen như muốn ngơ lời ,
Vẽ xinh buồn chết người bơi con thuyền .
Bản dịch Trần Trọng San
Comment
-
HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tuế lâu.
Lư Bạch
TẠI LẦU HOÀNG HẠC TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN ĐI QUẢNG LĂNG
Bạn từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi ḍng.
Bóng buồm đă khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy ḍng sông bên trời.
NGÔ TẤT TỐ dịch
Bạn cũ rời tây Hoàng-Hạc lâu,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương-Châu.
Buồm đơn, bóng lẫn vào mây biếc,
Chỉ thấy Trường Giang xuôi măi đâu...
NGUYỄN KỶ NIỆM dịch
Động lư hữu thiên xuân tịch tịch
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang
Comment
-
Tĩnh Dạ Tứ
Sàng tiên khán nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương
Cứ đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tứ cố hương
Dịch nghĩa :
Đầu giường ánh trăng rọi
Tưởng là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ
Dịch thơ :
Ư Nghĩ Trong Đêm Vắng
Trước giường ngắm ánh trăng sa,
Trắng phơi mặt đất, ngỡ là ánh sương
Ngẩng đầu trông ngắm vầng trăng;
Cúi đầu lại nhớ xóm làng ngày xưa.
Trần Trọng SanNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
Thu tịch lữ hoài
Lương phong độ thu hải
Xuy ngă hương tứ phi
Liên sơn khứ vô tế
Lưu thủy hà thời quy
Mục cực phù vân sắc
Tâm đoạn minh nguyệt huy
Phương thảo yết nhu diệm
Bạch lộ thôi hàn y
Mộng trường Ngân Hán lạc
Giác băi thiên tinh hy
Hàm bi tưởng cựu quốc
Khấp hạ thùy năng huy
Đêm thu nỗi ḷng nơi đất khách
Gió lạnh thổi qua biển
Lùa ḷng nhớ cố hương
Núi liền xa tít tắp
Nước chảy biết về không
Mây nổi ngoài tầm mắt
Trăng soi thêm đứt ḷng
Cỏ đành thôi hết mướt
Sương giục áo bông choàng
Mơ tưởng sông Ngân lạc
Tỉnh trời sao đă tàn
Ôm sầu thương nước cũ
Rơi lệ cầm khôn đangNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn Chí
Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh ?
Sở dĩ chung nhật túy,
Đồi nhiên ngọa tiền doanh.
Giác lai miện đ́nh tiền,
Nhất điểu hoa gian minh.
Tá vấn thử hà nhật ?
Xuân phong ngữ lưu oanh.
Cảm chi dục thán tức,
Đối chi hoàn tự khuynh.
Hạo ca đăi minh nguyệt,
Khúc tận dĩ vong t́nh.
Dịch thơ :
Sống ở đời như giấc mộng lớn
Tội chi vất vả đời ḿnh
Cho nên suốt ngày ta say sưa
Nằm lăn quay bên cột nhà ph́a trước
Tỉnh dậy nh́n ra sân
Một con chim trong hoa đang hót
Ướm hỏi nay là ngày ǵ
Mà cái oanh bay chuyền học nói trong gió xuân ?
Ḷng cảm xúc , muốn thở than
Lấy rượu lại tự nghiêng bầu
Cất tiếng ca vang chờ trăng sáng
Ca hết khúc quên cả nỗi ḷng ḿnh
Ngày Xuân Say Rượu Tỉnh Dậy Nói Chí Ḿnh
Đời như giấc mộng lớn
Nhọc ḷng mà làm chi ?
Suốt ngày say túy lúy
Trước hiên nằm li b́
Tỉnh dậy trông sân trước
Trong hoa chim hót vang
Hôm nay ngày nào nhỉ
Gió đưa tiếng oanh vàng
Cảm xúc ta than thở
Đối cảnh ta nghiêng b́nh
Hát vang đợi trăng sáng
Hết khúc đă quên t́nh
(Bản Dịch Trần Trọng San )
************************
Ở đời như giấc chiêm bao
Làm chi mà phải lao đao cho đời ?
Vậy nên say suốt hôm mai
Bên cây cột trước , nằm dài khểnh chân
Tỉnh rồi , chợt ngó trước sân
Tiếng chim đâu đă nghe gần trong hoa
Ngày chi ? Thử hỏi cho ra
Gió xuân đang giục oanh già véo von
Cảm thương , ḷng những bồn chồn
Đoái trông cảnh vật giốc luôn chén quỳnh
Hát ngao chờ bóng trăng thanh
Lời ca vừa hết , mối t́nh đă quên
(Ngô Tất Tố dịch )Nhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
Kư Viễn
Mỹ nhân tại thời hoa măn đường
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm
Chi kim tam tải văn dư hương
Hương diệc cánh bất diệt
Nhân diệc cánh bất lai
Tương tư hoàng diệp tận
Bạch lộ thấp thanh đài
Gửi Phương Xa
Người đẹp c̣n đây, hoa thắm tươi
Người đi, giường trống, lá hoa rơi
Trên giường chăn gấm y nguyên nếp
Xuân Hạ ba lần hương chửa phai
Hương thơm phảng phất c̣n đây măi
Người đẹp đi xa chẳng trở về
Móc trắng, rêu canh cùng đẫm ướt
Lá vàng lác đác nhớ thương hoài...
Nhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
VƯƠNG CHIÊU QUÂN
Hán gia Tần địa nguyệt
Lưu ảnh chiếu minh phi
Nhất thướng ngọc quan đạo
Thiên nhai khứ bất qui
Hán nguyệt hoàn ṭng Đông hải xuất
Minh phi tây giá vô lai nhật
Yên Chi trường hàn tuyết tác hoa
Nga Mi tiều tụy một Hồ sa
Sinh phạp hoàng kim uổng đồ họa
Tử lưu thanh chủng xử nhân ta
Dịch nghĩa :
Vầng trăng nơi cung Hán nay đến đất Tần
Chuyển bóng theo Minh Phi dơi chiếu
Một khi bước lên cửa ải Ngọc Môn
Là đi măi đến chân trời không trở lại
Trăng Hán vẫn từ biển đông mọc lên
Minh Phi bị gă sang nước phía tây không ngày trở về
Đỉnh Yên Chi lạnh măi tuyết trắng tung hoa
Mày ngài rầu rĩ ngập dưới cát bụi đất Hồ
Đời sống thiếu bạc vàng , nên tranh vẽ chân dung bị bôi nhọ
Chết đi, để lại nấm mồ xanh cho người đời thương xót
Dịch thơ :
Vương Chiêu Quân
Xứ Tần trăng Hán tỏ
Dơi bóng chiếu Minh Phi
Một lên đường ải Ngọc
Bên trời biền biệt đi
Trăng Hán vẫn mọc ngoài Đông Hải
Minh Phi sang Hồ không trở lại
Lạnh lùng hoa tuyết núi Yên Chi
Cát bụi bay mù ngập thúy my
Sống thiếu cân vàng tranh vẽ nhọ
Chết phơi nấm đất cỏ xanh ŕ
Trúc Khê dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
ĐỐI TỬU
Khuyến quân mạc cự bôi
Xuân phong tiếu nhân lai
Đào lư như cựu thức
Khuynh hoa hướng ngă khai
Lưu oanh đề bích thụ
Minh nguyệt khuy kim lôi
Tạc lai chu nhan tử
Kim nhật bạch phát thôi
Cúc sinh Thạch hổ điện
Lộc tẩu Cô Tô đài
Tự cổ đế vương trạch
Thành khuyết bế hoàng ai
Quân nhược bất ẩm tửu
Tích nhân an tại tai!
TRƯỚC RƯỢU
Khuyên bạn đừng chê rượu
Gió xuân cười cợt người
Đào lư bạn quen cũ
Nghiêng hoa nở v́ ai
Cành biếc chim oanh hót
Chén vàng trăng sáng soi .
Bửa trước mặt non dại
Hôm nay tóc bạc rồi
Gai lan thạch hổ điện
Hươu chạy Cô tô đài
Xưa nay cung vua chuá
Thành khuyết ngập trần ai
Bạn sao không uống rượu
Người xưa nay c̣n ai ??Nhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
QUAN SƠN NGUYỆT
Minh nguyệt xuất Thiên san
Thương mang vân hải gian
Trường phong kỷ vạn lư
Xuy độ Ngọc môn quan
Hán hạ Bạch Đăng đạo
Hồ khuy Thanh Hải loan
Do lai chinh chiến địa
Bất kiến hữu nhân hoàn
Thú khách vọng biên sắc
Tư quy đa khổ nhan
Cao lâu đương thử dạ
Thán tức vị ưng nhàn
Dịch nghĩa :
Trăng sáng mọc trên núi Thiên san
Trong cảnh mênh mông giữa mây và biển
Gió bay mấy ngàn dặm về
Thổi đến cửa ải Ngọc môn
Nhà Hán đồn binh ở lộ Bạch Đăng
Rợ Hồ ngấp nghé ở vũng Thanh hải
Xưa nay vẫn là băi chiến trường
Không thấy có ai được trở về
Người lính thú nh́n đăm đăm cảnh sắc xa xa
Ḷng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ
Đêm nay có ai đang ngồi trên lầu cao
Hẳn phải than thở mà không dám nhàn nhă
Dịch Thơ :
Vừng trăng ra núi Thiên san
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi
Gió đâu muôn dặm chạy dài
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc môn
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn
Vùng kia Thanh hải ḍm luôn mắt Hồ
Từ xưa bao kẻ chinh phu
Đă ra đất chiến về ru mấy người
Buồn trông cảnh sắc bên trời
Giục ḷng khách thú nhớ nơi quê nhà
Lầu cao đêm vắng ai mà
Đêm nay than thở chắc là chưa nguôi
Tản Đà dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
NGUYỆT HẠ ĐỘC CHƯỚC
I .
Hoa gian nhất hồ tửu
Độc chước vô tương thân
Cử bôi yêu minh nguyệt
Đối ảnh thành tam nhân
Nguyệt kư bất giải ẩm
Ảnh đồ tuỳ ngă thân
Tạm bạn nguyệt tương ảnh
Hành lạc tu cập xuân
Ngă ca nguyệt bồi hồi
Ngă vũ ảnh linh loạn
Tỉnh thời đồng giao hoan
Túy hậu các phân tán
Vĩnh kết vô t́nh du
Tướng kỳ mạc Vân Hán
Dịch nghĩa :
Trong đám hoa với một b́nh rượu
Uống một ḿnh không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng
Cùng với bóng nữa là thành ba người
Trăng đă không biết uống rượu
Bóng chỉ biết đi theo ḿnh
Tạm làm bạn với trăng và bóng
Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân
Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi
Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn
Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa
Sau khi say th́ phân tán mỗi một nơi
Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô t́nh này
Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại
DƯỚI TRĂNG UỐNG RƯỢU MỘT M̀NH
Trong hoa một bầu rượu
Riêng ḿnh chẳng có ai
Nâng chén mời trăng sáng
Với bóng thành ba người
Trăng không biết thú rượu
Bóng theo hoài bên thân
Tạm cùng trăng với bóng
Vui chơi cho kịp xuân
Ta ca trăng bồi hồi
Ta múa bóng linh loạn
Lúc tỉnh cùng nhau vui
Say rồi đều phân tán
Vô t́nh kết bạn chơi
Hẹn nhau nơi Vân Hán
(Trần Trọng San dịch )
Trong hoa rượu ngọt một bầu
Một ḿnh chuốc chén có đâu bạn bè
Mời trăng cất chén kè nhè
Thân ta bóng ấy trăng kia ba người
Trăng th́ tiếp rượu không nguôi
Bóng ta theo măi không rời thân ta
Bạn cùng trăng bóng vẫn vơ
Vui chơi khuây khỏa để chờ ngày xuân
Ta ca trăng cũng bâng khuâng
Khi ta nhảy múa bóng lăn lộn hoài
Cùng nhau khi tỉnh vui cười
Say rồi nghiêng ngửa mọi nơi rạc rời
Vô t́nh giao kết chơi bời
Hẹn nhau ở chỗ xa xôi cơi trời
(Trần Trọng Kim dịch )
II .
Thiên nhược bất ai tửu
Tửu tinh bất tại thiên
Địa nhược bất ái tửu
Địa ưng vô tửu tuyền
Thiên địa kư ái tửu
Ái tửu bất qui thiên
Dĩ văn thanh tỉ thánh
Phục đạo trọc như hiền
Hiền thánh kư dĩ ẩm
Hà tất cầu thần tiên
Tam bôi thông đại đạo
Nhất đẩu hợp tự nhiên
Đăn đắc túy trung thú
Vật vi tỉnh giả truyền
Dịch thơ :
Nếu trời không thích rượu
Sao rượu ở chi trời
Nếu đất không thích rượu
Suối rượu ở chi đời
Trời đất đă thích rượu
Thích rượu không thẹn trời
Đă nghe trong như thánh
Lại nói đục như hiền
Thánh hiền đều uống rượu
Thôi cầu chi thần tiên
Ba chén thông đạo lớn
Một sao hợp tự nhiên
Cốt được thú trong say
Kẻ tỉnh mặc ai khen ?Nhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
XUÂN DẠ LẠC THÀNH VĂN ĐỊCH
Thùy gia ngọc địch ám phi thanh
Tán nhập xuân phong măn Lạc thành
Thử dạ khúc trung văn "Chiết Liễu"
Hà nhân bất khởi cố viên t́nh
Dịch ư :
Tiếng sáo ngọc nhà ai vang trong bóng tối
Tan vào gió xuân man mác chốn Lạc thành
Đêm nay trong khúc sáo nghe có bai "chiết liễu "
Ai người không nao ḷng nhớ vườn xưa ?
Dịch thơ :
ĐÊM XUÂN LẠC THÀNH NGHE TIẾNG SÁO
Nhà ai sáo ngọc bỗng ngân vang
Theo gió xuân bay khắp Lạc Thành
D́u dặt nghe như bài Chiết Liễu
Vườn xưa ai chẳng chứa chan t́nh
(Ngô Văn Phú dịch )Nhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
TƯƠNG TIẾN TỬU
Quân bất kiến
Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
Hựu bất kiến
Cao đường minh kính bi bạch phát
Triêu như thanh ty mộ như tuyết
Nhân sinh đắc ư tu tận hoan
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt
Thiên sinh ngă tài tất hữu dụng
Thiên kim tán tận hoàn phục lai
Phanh dương tế ngưu thả vi lạc
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi
Sầm phu tử, Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu .Bôi mạc đ́nh !
Dữ quân ca nhất khúc
Thỉnh quân vị ngă khuynh nhĩ thinh
Chung cổ soạn ngọc bất túc qúy
Đản nguyện trường túy bất dụng tinh
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
Trần vương tích thời yến B́nh Lạc
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền
Kinh tu cô tửu đối quân chước .
Ngũ hoa mă, Thiên kim cừu
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu ....
Dịch nghĩa :
Bạn chẳng thấy :
Nước sông Hoàng hà từ trên trời đổ xuống
Cuồn cuộn chảy ra biển không trở lại
Lại chẳng thấy
Gương sáng trên lầu cao soi nỗi buồn tóc trắng
Sớm như tơ xanh ,chiều đă tuyết
Đời người , khi đắc ư , nên tận hưởng niền vui
Đừng để chén vàng cạn trơ dưới ánh trăng
Trời sinh ra ta ắt có chỗ dụng
Ngh́n vàng tiêu sạch rồi lại có
Mổ dê , giết ḅ t́m cuộc vui
Tất phải uống một lần đủ ba trăm chén
Hỡi ông Sầm , Hỡi chàng Đan Khâu
Rượu sắp bưng vào rồi ,xin chớ dừng lại
V́ bạn , ta hát lên một bài
V́ ta mời bạn nghiêng tai lắng nghe
Tiệc ngon giữa tiếng trống chuông cũng không đáng quư
Ta không muốn tỉnh , chỉ muốn say mèm
Từ xu&a , các bậc thánh hiền đều vắng ngắt
Duy người uống rượu là lưu danh
Thời trước Trần Vương , yến ẩm cung B́nh Lạc
Rượu vạn đồng một đấu , mặc sức vui uống nô đùa
Chủ nhân v́ sao lại kêu thiếu tiền
Hăy mua rượu mau đê/ bạn cùng ta chuốc chén
Này đây ngựa năm sắc , áo cừu quư ngàn vàng
Chú hầu hăy đem đổi lấy rượu ngon
Cùng nhau phá tan trận sầu muôn thuở
Dịch thơ :
SẮP KÈO RƯỢU
Biết chăng ai ,
Sông Hoàng Hà ngọn nước tự lưng trời ,
Tuôn xuống bể khôn vời lại được
Thấy chăng nữa ,
Đài gương mái tóc bạc ,
Sớm như tơ mà tối đă như sương
Nhân sinh khi đắc ư nên càng
Khôn nỡ để chén vàng trơ với nguyệt
Tài hữu dũng lẽ trời âu phải quyết
Rượu nâng lên chớ nỡ rời tay
V́ người hát một khúc này
Xin người hăy lắng tai nghe lấy
Tiệc chung cổ ngọc vàng là mấy
Hăy nên say , say măi , tỉnh chưa mà !
Thánh hiền xưa cũng vắng xa
Chỉ có rượu với người danh là vẫn để !
Tiệc B́nh Lạc xưa kia vẫn thế
Mười ngh́n chung mặc thích vui cười
Tiền chủ nhân bao quản vắn dài
Cùng mua nữa cùng người khuyên rót
Ngựa hoa tốt mà áo cừu cũng tốt
Gọi đồng ra đổi lấy rượu ngon
Cùng người giải vạn kiếp buồn
(Khuyết danh)Nhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
XUÂN TỨ
Yến thảo như bích ty
Tần tang đê lục chi
Đương quân hoài quy nhật
Thị thiếp đoạn trường th́
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi ?
Dịch nghĩa
Cỏ đất Yên như sợi tơ xanh biếc
Dâu đất Tần cành xum xuê lá xanh
Chính lúc chàng nhớ đến ngày trở về quê
Cũng là lúc thiếp đă nhớ đứt từng khúc ruột
Gió xuân nào có hay biết
Việc chi mà lọt vào màn the
Dịch thơ
Ư NGHĨA MÙA XUÂN
Cỏ Yên biếc tựa tơ xanh
Dâu Tần tươi thắm rủ cành lê thê
Ngày chàng nghĩ đến trở về
Là khi ḷng thiếp ê chề quặn đau
Gió xuân quen biết chi nhau
Cớ sao lại đến thổi vào màn the
Trần Trọng San
Cỏ Yên dường sợi tơ xanh
Dâu Tần cũng năy những cành le te
Đương khi chàng muốn về quê
Chính là khi thiếp đau tê tấm ḷng
Gió xuân đâu có quen cùng
Cớ chi lại cứ vào trong màn là
Trần Trọng Kim
Cỏ Yên như tơ biếc
Dâu Tần lả lướt xanh
Lúc chàng mong trở lại
Thiếp đang thắt ruột gan
Gió xuân nào có biết
Cớ chi vào trong màn ?
Ngô Văn PhúNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
Dữ Sử Lang Trung ẩm thính Hoàng Hạc lâu thượng xuy địch
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa
Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt "Lạc mai hoa"
Cùng Sử Lang Trung Sử uống rượu nghe thổi sáo trên lầu Hoàng Hạc
Một làm khách biếm tận Trường Sa
Tây dơi Trường An chẳng thấy nhà
Sáo ngọc trên lầu Hoàng Hạc lộng
Tháng năm thành quạnh "Lạc mai hoa"
Đông A dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa:
ánh nắng chiếu rọi trên sông Hương Lô sinh ra khói tía
từ xa ngắm cảnh thác núi treo trước con sông này
thác nước chảy như bay xuống từ ba nǵn trượng
ngỡ như là dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây
Dịch thơ:
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông ḍng thác trước sông này :
Nước bay thẳng xuống ba ngh́n thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
TƯƠNG NHƯ dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
TRƯỜNG CAN HÀNH
I .
Thiếp phát sơ phúc ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mă lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Tràng An lư
Lưỡng tiểu vô hiềm sai
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thương khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thủy triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Trường tồn băo trụ tín
Khởi thượng vọng phu đài
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường , Diệm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai
Môn tiền cựu hành tích
Nhất nhất sinh dục đài
Đài thâm bất khả tảo
Lạc diệp thu phong tảo
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Tọa sầu hồng nhan lăo
Tảo văn há Tam Ba
Dự tương thư báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực đáo Trường Phong Sa
Dịch nghĩa:
TRƯỜNG CAN HÀNH
Tóc em mới xoà ngang trán
Bẻ hoa trước cửa nhà chơi
Chàng cửa ngựa tre đến
Quanh giường nghịch ném quả mơ xanh
Cùng sống ở đất Trường Can
Hai đứa nhỏ chẳng hề giữ ư
Năm mười bốn làm vợ anh
Mặt thẹn tḥ không lúc nào tươi
Cúi đầu ngoảnh vào vách tối
Gọi ngh́n câu chẳng một lời đáp lại
Năm mười lăm mới tươi tỉnh mặt mày
Nguyện sống chết chẳng rời nhau
Thường tin chàng như người ôm cột một ḷng
Há tưởng thiếp phải lên đài cao ngóng chồng
Năm mười sáu chàng đi xa
Đến Cồ Đường , Diệm Dự
Tháng năm nơi ấy không thể qua
Tiếng vượn kêu vang trời thảm thiết
Trước cửa dấu chân bước dạo xưa
Chỗ nào cũng rêu xanh phủ mờ
Rêu dầy không quét được
Lá sớm rụng theo gió mùa thu
Tháng tám bướm bay vàng chới
Từng đôi dập dùi trên vườn cỏ phía tây
Cám cảnh ấy , ḷng thiếp đau đớn
Ngồi buồn , tuổi con gái ngày một già
Sớm muộn chàng tới Tam Ba
Hăy gửi thư về nhà báo trước
Đón nhau ngại v́ đường xa
Thiếp sẽ tời tận Trường Phong Sa
- Thường tin chàng như người ôm cột một ḷng: Vi Sinh hẹn người t́nh đến gặp dưới chân cầu , nhưng người t́nh không đến . Thủy triều lên , chàng không chịu dời , ôm cột mà chết
-Cồ Đường , Diệm Dự : hai nơi có đá ngầm trên sông Trường Giang , thuộc Tứ Xuyên
-Tam ba: ba vùng đất mang tên Ba , đó là Ba Thục , Ba Đông và Ba Tây (đông bắc Tứ Xuyên )
-Trường Phong Sa: một địa danh trên sông Trường Giang thuộc tỉnh An Huy , cách rất xa xóm Trường Cam
Dịch thơ :
Khi tóc vừa buông trán ,
Hái hoa trước cổng chơi .
Chàng cưỡi ngựa tre đến ,
Quanh giường tung trái mai .
Trường Can cùng chung xóm ,
Cả hai đều thơ ngây .
Mười bốn , về làm vợ ,
Thiếp c̣n e lệ hoài .
Cúi đầu vào vách tối ,
Gọi măi , chẳng buồn quay .
Mười lăm , mới hết thẹn .,
Thề cát bụi không rời .
Bền vững ḷng son sắc ,
Há lên Vọng phu đài .
Mười sáu , chàng đi xa ,
Cồ Đường , Diễm Dự đôi .
Tháng năm không đến được ;
Vượn buồn kêu trên trời .
Trước cổng vết chân cũ ,
Rêu xanh mọc um đầy .
Rêu nhiều không quét hết ,
Gió thổi , lá vàng rơi .
Tháng tám , bươm bướm vàng ,
Trên cỏ vườn bay đôi .
Cảnh ấy đau ḷng thiếp ,
Má hồn buồn phôi pha .
Khi chàng xuống Tam Ba ,
Nhớ gởi thư về nhà .
Thiếp sẽ mau đi đón ,
Đến thẳng Trường Phong Sa .
Bản dịch Trần Trọng San
Tóc em mới kín trán
Trước cửa bẻ hoa đùa
Chàng cưỡi ngựa trúc lại
Quang ghế tung mơ chua
Cùng ở xóm Trường Can
Đôi trẻ vui tha hồ
Mười bốn làm vợ chàng
Thơ ngây em hổ thẹn
Bên vách cúi gầm đầu
Mặc dầu chàng gọi đến
Mười lăm mới bạo dạn
Quấn nhau không muốn rời
Ôm cột nguyền giữ ước
Vọng phu chẳng lên đài
Mười sáu chàng đi xa
Tháp Cồ , ḥn Diệm Dự
Nước lớn đang tháng năm
Vượn kêu buồn lắm nữa
Vết giày in trước cửa
Xanh xanh rêu mọc đầy
Rêu nhiều không thể quét
Lá rụng gió thu bay
Tháng tám bươm bướm vàng
Bay đôi trên áng cỏ
Xúc cảm em đau ḷng
Héo già thương má đỏ
Chàng sớm rời Tam Ba
Báo thư trước về nhà
Đón chàng em há quản
Đến tận Trường Phong Sa
Trúc Khê
Nhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
TẶNG UÔNG LUÂN
Lư Bạch thừa chu tương dục hành
Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh
Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích
Bất cập Uông Luân tống ngă t́nh
Dịch nghĩa:
Lư Bạch cưỡi thuyền sắp sửa ra đi
Bỗng trên bờ có tiếng chân nhảy nhịp và hát
Nước đầm đào hoa sâu hàng ngàn thước
Không bằng t́nh Uông Luân tiễn ta
Dịch thơ
Lư Bạch lên thuyền sắp sửa xa
Trên bờ nhịp nhảy rộn lời ca
Đào hoa đầm rộng sâu ngàn thước
Khôn sánh t́nh Uông đưa tiễn ta
Ngô Văn Phú dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
THÁI LIÊN KHÚC
Nhược gia khê bàng thái liên nữ
Tiếu cách hà hoa cộng nhân ngữ
Nhật chiếu tân trang thủy để minh
Phong phiêu hương duệ không trung cử
Ngạn thượng thùy gia du dă lang
Tam tam ngũ ngũ ánh thùy dương
Tử lưu tế nhập lạc hoa khứ
Kiến thử tŕ trù không đoạn trường
Dịch nghĩa:
Cô gái hái sen bên khe Nhược Gia
Cách làn hoa sen đang tươi cười tṛ chuyện
Mặt trời soi vẻ đẹp vừa điểm trang , sáng ngời cả đáy nước
Gió thổi nhẹ bay vạt áo đượm hương thơm phơ phất trong khoảng không
Trên bờ có anh chàng lẳng lơ chẳng biết con cái nhà ai
Thấp thoáng dưới cây dương liễu rũ mành
Ngựa tuấn mă tía hí vang dong ruổi trên đường hoa rụng
Nhác trông thấy cô nàng , chàng ta chần chừ như đứt từng khúc ruột
Dịch thơ :
KHÚC HÁT HÁI SEN
Có cô con gái nhà ai
Hái sen , chơi ở bên ng̣i Nhược Gia
Mặt hoa cười cách đóa hoa
Cùng ai cười nói mặn mà thêm xinh
Áo quần mặc mới sáng tinh
Nắng soi đáy nước lung linh bóng lồng
Thơm tho vạt áo gió tung
Bay lên phất phới trong không ngạt ngào
Năm ba chàng trẻ nhà nào
Đoái trông ai đó ngậm ngùi tiếc thương
Tản Đà dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
Thượng Giang Ngâm
Mộc lan chi duệ sa đường châu .
Ngọc tiêu kim quản tọa lưỡng đầu .
Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc ,
Tái kỹ tùy ba nhiệm khứ lưu .
Tiên nhân hữu đăi thừa hoàng hạc .
Hải khách vô tâm tùy bạch âu .
Khuất B́nh từ phú huyền nhật nguyệt .
Sở vương đài tạ không sơn khâu .
Hứng hàm lạc bút dao ngũ nhạc ,
Thi thành tiếu ngạo Lăng Thương châu .
Công danh phú quí nhược trường tại ,
Hán thủy diệc ưng tây bắc lưu .
Lư Bạch
Dịch nghĩa :
Khúc Ngâm Trên Sông
Con thuyền bằng gổ sa đường , lái bằng gỗ mộc lan , có tiêu ngọc sáo vàng ở hai đầu . Với ngàn hộc rượu ngon đặt bên trên , thuyền chở kỹ nữ , theo sóng tự do trôi đi .
Xưa kia có vị tiên chờ cưỡi hạc vàng bay đi , lại có người khách biển vô tâm theo chim âu trắng, c̣n lâu đài của vua Sở ngày nay chỉ c̣n là núi g̣ .
Khi cảm hứng sau sưa , hạ ngọn bút làm rung chuyển năm ngọn núi lớn; lúc thơ làm xong , tiếng cười cợt , ngạo nghễ vượt qua băi xanh . Nếu như công danh , phú quí mà c̣n tồn tại lâu dài , th́ ḍng sông Hán Thủy hẳn phải chạy lên phía Tây bắc .
** Hoàng hạc : tương truyền tiên nhân Tử An cưỡi hạc qua chơi ghềnh đá Hoàng Hộc ở huyện Vũ Xương ,tỉnh Hồ Bắc ; về sau có lầu Hoàng hạc ở đây .
** Khuất B́nh : tức Khuất Nguyên , người nước Sở, thời chiến quốc, là tác giả bài phú Ly tao .
**Ngũ nhạc : năm núi lớn : Thái Sơn , Hoa Sơn , Hành Sơn , Hằng Sơn và Tung Sơn .
** Hán Thủy : tên sông , phát nguyên tại tỉnh Thiểm Tây , chảy vào sông Trường Giang ở tỉnh Hoài Bắc .
Khúc Ngâm Trên Sông
Chèo lan , thuyền gỗ sa đường ,
Hai đầu , sáo ngọc , tiêu vàng giúp vui .
Ngàn b́nh rượu đă sẵn rồi ,
Chở theo kỹ nữ , mặc trôi con thuyền .
Có người cỡi hạc lên tiên ;
Vô tâm , khách biển theo chim quên dời .
Khuất B́nh văn rực gương trời ,
Lâu đài vua Sở chôn vùi cổ khâu .
Hứng say , bút chuyển núi cao ;
Thơ xong , cười cợt rạt rào băi sông .
Giàu sang c̣n măi không cùng ,
Th́ sông Hán hẳn ngược ḍng mà trôi .
Bản dịch Trần Trọng San
Comment
-
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ I
Trường tương tư , tại Tràng An
Lạc vi thu đề kim tỉnh lan
Vi phong thê thê đàm sắc hàn
Cô đăng bất minh tứ dục tuyệt
Quyển duy vọng nguyệt không trường thán
Mỹ nhân như hoa cách vân đoan
Thượng hữu thanh mạc chi trường thiên
Hạ hữu lục thủy chi ba lan
Thiên trường địa viễn hồn phi khổ
Mộng hồn bất đáo quan san san
Trường tương tư , tồi tâm can
Dịch nghĩa :
Nhớ nhau hoài ở Trường An
Sẹt sành kêu thu bên giếng vàng
Sương mỏng lạnh lẽo , sắc chiếu lạnh
Đèn lẻ loi không sáng ,nỗi nhớ càng nung nấu
Cuốn rèm ngắm trăng , ngửa mặt lên trời than dài
Người đẹp như hoa hiện lên sau sắc mây
Trên có giải xanh trời cao thăm thẳm
Dước có nước xanh sóng nhẹ đưa
Trời cao đất rộng hồn thêm khổ
Mộng hồn bay đến nơi Quan San kia cũng khó
Nhớ nhau hoài , đứt ruột gan
Dịch thơ
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ I
Nhớ nhau hoài , ở Tràng An
Sẹt sành kêu thu ran giếng vàng
Sương mỏng buốt giá chiếu hoa lạnh
Đèn lẻ hắt hiu ḷng trống vắng
Cuốn rèm nh́n trăng , buột thở than
Người đẹp hiện lên sau mây ngàn
Trên có tầng xanh , trời mênh mang
Dưới có nước biếc , sóng hồ lan
Trời cao đất rộng hồn bay nhọc
Mộng hồn khôn đến được Quan san
Nhớ nhau hoài , nẫu ruột gan
Ngô Văn Phú dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
Trường Can Hành
( kỳ nh́)
Ức thiếp thâm khuê lư ,
Yên trần bất tằng thức .
Giá dữ Trường Can nhân,
Sơn đầu hậu phong sắc .
Ngũ nguyệt nam phong hưng ,
Tư quân há Ba Lăng .
Bát nguyệt tây phong khởi ,
Tưởng quân phát Dương Tử .
Khứ lai bi như hà ,
Kiến thiểu biệt ly đa .
Tương đàm kỷ nhâ,t đáo ,
Thiếp mộng việt phong ba .
Tạc dạ cuồng phong độ ,
Xuy chiếc giang đầu thụ .
Diểu diểu án phong biên ,
Hành nhân tại hà xứ .
Hảo thừa phù vân thông ,
Giai kỳ lan chử đông .
Uyên ương lục bồ thượng ,
Phỉ thúy cẩm b́nh trung .
Tự lân thập ngũ dư ,
Nhan sắc đào hoa hồng .
Na tác thương nhân phụ ,
Sầu thủy phục sầu phong .
Lư Bạch
Dịch nghĩa :
Bài Hát Trường Canh ( bài hai )
Nhớ lại lúc c̣n ở trong pḥng khuê sâu kín chưa từng biết cảnh gió bụi ; từ khi lấy chồng người Trường Can , thường lên đầu núi , chờ đợi sắc gió .
Tháng năm khi gió nam thổi , thiếp đang nghĩ chàng dang đi xuống huyện Ba lăng . Tháng tám khi gió tây thổi, thiếp nghĩ đến chàng đang từ sông Dương Tử ra đi .
Từ trước đến nay đau thương đến như thế nào ? Gặp nhau th́ ít mà ly biệt th́ nhiều . Biết bao nhiêu ngày mới được huyện Tương Đàm ? Thiếp nằm mơ thấy vượt qua sóng gió .
Đêm qua cơn gió thổi mạnh qua , làm găy cây cối ở đầu sông . Bên gió tối mịt mùng , người đi bây giờ đang ở đâu ?
Thiếp mong được cỡi con ngựa là đám mây nổi kia , để đến gặp chàng ở phía đông băi lan .Chim uyên ương nằm trên lớp cỏ bồ xanh ; chim phỉ thúy thêu trên bức b́nh phong gấm .
Trông thấy cảnh đó , thiếp tự thương ḿnh , mới hơn mười lăm tuổi , nhan sắc đỏ thắm như hoa đào , mà sao lại làm vợ người lái buôn , hết buồn v́ nước lại buồn v́ gió .
Trường Can Hành ( Bài hai )
Nhớ xưa trong pḥng khuê ,
Chẳng từng biết gió bụi .
Lấy chồng người Trường Can ,
Đợi gió trên đầu núi .
Tháng năm gió nam nổi
Chàng đang xuống Ba Lăng .
Tháng tám gió tây thổi ,
Chàng đang qua sông Dương .
Bấy nay buồn biết mấy ,
Ít gặp , nhiều chia xa .
Tương Đàm bao ngày tới ?
Thiếp mộng vượt phong ba .
Trận cuồng phong đêm trước ,
Bẻ gẫy cây đầu sông .
Mịt mùng bên gió tối ,
Người đi biết đâu vùng .
Mong cưỡi ngựa mây nổi ,
Hẹn nhau tại bến đông .
Uyên ương trên cỏ biếc ,
Phỉ thúy trong b́nh phong .
Thương thay mười lăm tuổi ,
Nhan sắc thắm hoa đào .
Nay thành người thương phụ ,
Gió nước gợi sầu đau .
Bản dịch Trần Trọng San
Comment
-
SONG YẾN LY
Song yến phục song yến
Song phi linh nhân tiễn
Ngọc lâu châu các bất độc thê
Kim song tú hộ trường tương kiến
Bách Lương thất hỏa khứ
Nhân nhập Ngô vương cung
Ngô cung hựu phần đăng
Sồ tận , sào diệc không
Tiều tụy nhất thân tại
Sương thư tư cố hùng
Song phi nan phục đắc
Thương ngă thốn tâm trung
Dịch nghĩa :
Đôi én lại đôi én
Bay đôi khiến người ta trầm trồ
Lầu ngọc gác tía không chịu đậu một ḿnh
Bên cửa sổ dát vàng và khung cửa màn thêu , lâu dài có nhau
Lâu đài Bách Lương bị lửa đốt cháy
Bèn bay vào cung vua Ngô
Cung vua Ngô lại bị thiêu hủy
Chim non chết hết , tổ cũng tan
Rớt lại chiếc thân tiều tụy
Chim mái góa nhớ chim trống xưa
Muốn cùng bay đôi không được nữa
Đau thương thay tấc ḷng ta !
Dịch thơ :
ĐÔI ÉN RỜI NHAU
Nhởn nhơ cặp én bay đôi
Bay đôi quấn quít cho người mến yêu
Lầu vàng gác ngọc song thêu
Khi mai chắp cánh , khi chiều sóng vai
Lửa đâu cháy Bách Lương đài
Cung Ngô tưởng được là nơi ở bền
Lửa Ngô phút lại bừng lên
Con tan , tổ vỡ biến thiên chẳng ngờ
Chiếc thân én góa bơ vơ
Nhớ chồng biết đến bao giờ cho khuây ?
Mong chi chắp cánh cùng bay
Ḷng ta ảo năo thương mày , én ơi
Trúc Khê dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
TÁI HẠ KHÚC
I .
Ngũ nguyệt thiên sơn tuyết
Vô hoa chỉ hữu hàn
Địch trung văn Chiết Liễu
Xuân sắc vị tằng khan
Hiểu chiến tùy kim cổ
Tiêu miên băo ngọc an
Nguyện tương yêu hạ kiếm
Trực vị trảm Lâu Lan
Dịch nghĩa :
Tháng năm , núi Thiên Sơn vẫn c̣n tuyết phủ
Chẳng thấy hoa , chỉ giá rét lạnh lùng
Tiếng sáo thổi nghe bài " Chiết Liễu "
Chưa từng thấy cảnh sắc mùa xuân
Buổi sớm đánh nhau nghe theo hiệu trống
Ban đêm nằm ngủ ôm chiếc yên ngọc
Muốn tuốt gươm bên lưng
Thẳng chém chúa Lâu Lan
- Thiên sơn : tức núi Kỳ Liên , rất cao , tháng năm vẫn c̣n tuyết
- Lâu Lan : một nước thời Tây Hán , hay ngăn cản không cho sứ giả nhà Hán qua Tây Vực . Phó Giới Tử được lệnh đến Lâu Lan dùng mưu giết được vua nước đó
Dịch thơ :
KHÚC HÁT DƯỚI ẢI
Thiên Sơn , tháng năm tuyết
Không hoa , rét cóng người
Sáo thổi bài Chiết Liễu
Mùa xuân chưa tới nơi
Trận sớm theo hiệu trống
Đêm ngủ ôm yên ngồi
Xin vung thanh gươm quí
Lâu Lan chém chết tươi !
Ngô Văn Phú dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
TÁI HẠ KHÚC
II .
Thiên binh há bắc hoang
Hồ mă dục nam ẩm
Hoành qua ṭng bách chiến
Trực vị hàm ân thậm
Ác tuyết hải thượng xan
Phất sa lũng đầu tẩm
Hà đương phá Nguyệt Chi
Nhiên hậu phương cao chẩm
Dịch nghĩa :
Binh trời xuống cơi Bắc
Ngựa Hồ muốn uống nước bờ Nam
Ngáng giáo xông pha trăm trận
Chỉ v́ được đội ơn sâu
Trên bể , vốc tuyết ăn
Bên ruộng , phủi cát ngủ
Bao giờ đánh tan được Nguyệt Chi
Mới nằm gối cao yên giấc
Dịch thơ
Binh trời sang cơi Bắc
Ngựa Hồ uống sông Nam
Cầm dáo , đánh trăm trận
Ơn dầy vua đă ban
Tuyết lạnh , tay vốc uống
Bới cát ngủ làm chăn
Giặc dữ khi nào phá
Gối cao , yên chí nằm
Ngô Văn Phú dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
TÁI HẠ KHÚC
III .
Tuấn mă như phong biều
Minh tiên xuất Vị Kiều
Loan cung từ Hán nguyệt
Sáp vũ phá thiên kiêu
Trận giải tinh mang tận
Doanh không hải vụ tiêu
Công thành họa Lân các
Độc hữu Hoắc Phiêu Diêu
Dịch nghĩa :
Tuấn mă chạy như gió
Thét ra roi thẳng Vị Kiều
Giương cung từ tạ trăng Hán
Mũi tên cắm lông bắn phá giặc trời
Trận tan , tia sáng trên sao tắt
Doanh vắng , khói biển tiêu tan
Lập công được vẽ tượng trên gác Kỳ Lân
Chỉ có quan Phiêu Diêu họ Hoắc
Dịch thơ :
Ngựa bay như gió vút
Quất roi rời Vị Kiều
Giương cung biệt trăng Hán
Tên cứng nhằm giặc liều
Trận xong , sao trời tắt
Doanh vắng , khói sương veo
Gác lân ghi h́nh tích
Là quan Hoắc Phiêu Diêu
Ngô Văn Phú dịchNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
-
TÁI HẠ KHÚC
IV .
Bạch mă Hoàng Kim tái
Vân sa nhiễu mộng tư
Na kham sầu khổ tiết
Viễn ức biên thành nhi
Huỳnh phi thu song măn
Nguyệt độ sương khuê tŕ
Tồi tàn ngô đồng diệp
Tiêu táp sa đường chi
Vô thời độc bất kiến
Lệ lưu không tự tri
Dịch nghĩa :
Ngựa trắng phi trên ải Hoàng Kim
Mây cát cuốn theo giấc mộng
Sá kể chi nỗi đau khổ
Xa nhớ trẻ ngoài biên cương
Mùa thu , đom đóm bay đầu cửa sổ
Sương lạnh , trăng chầm chậm qua buồng the
Lá ngô đồng tàn rụng , cành sa -đường xác xơ
Trông ngóng luôn nhưng nào có thấy
Một ḿnh tuôn lệ âm thầm
Dịch thơ
Ngựa trắng phi ải Vàng
Mộng theo làn mây cát
Trời xấu , mấy gian nan
Ải ngoài thương trẻ nít
Thu về đom đóm bay
Buồng khuê trăng quấn quít
Tàn rụng lá ngô đồng
Cây găy cành xơ xác
Trông ngóng , tin thường bặt
Một ḿnh , lệ lặng tuônNhất đóa phù dung trầm ảnh thủy
Phiến vân thiên thượng khứ du du
Băng hàn ngọc kết như minh nguyệt
Tâm đồng tri kỷ đáo muôn thu
Comment
Comment