Nguyễn Văn Vĩnh (1882–1936)
Có những bài báo ông viết vào những năm đầu thập niên của thế kỷ trước, vậy mà hôm nay đọc lại vẫn thấy mang tính thời sự đáng suy ngẫm . Đề tài này tập hợp một số bài phóng sự, kư sự của ông. Riêng Thơ ngụ ngôn của La Fontaine do Nguyễn Văn Vĩnh dịch sẽ đưa lên ở Việt Vân Thi Các
Vài nét về tác giả:
Nguyễn Văn Vĩnh là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết, ông kư nhiều bút hiệu: Tân Nam Tử, Quan Thành, Tông Gia, Lang Gia, Mũi Tẹt Tử, Đào Thị Loan.
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1882 tại nhà số 46, phố Hàng Giấy, Hà Nội. Nhưng quê gốc của ông là làng Phượng Vũ, xă Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc xă Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). V́ quá nghèo, cha mẹ ông phải bỏ làng quê ra ở nhờ nhà bà nghè Đại Gia (tức ông nghè Phạm Huy Hổ) ở phố Hàng Giấy kiếm sống, và rồi sinh ông tại đây.
Năm lên 8 tuổi, ông đi chăn ḅ thuê ngoài băi sông Hồng. Sau đó, ông phát hiện ở đ́nh làng Yên Phụ (nay là Trường phổ thông cơ sở Mạc Đĩnh Chi, Hà Nội) có lớp học do thầy giáo người nước ngoài phụ trách, dạy học sinh trở thành thông ngôn (nhân viên phiên dịch).
Sau đó, ông về xin phép cha mẹ được thôi nghề chăn ḅ, để làm công việc kéo quạt làm mát cho lớp học này. Ngồi cuối lớp kéo quạt, nhưng ông vẫn chăm chú nghe giảng. Nhờ vậy, mà ông nói và viết được tiếng Pháp.
Được Hiệu trưởng D’Argence chú ư và nâng đỡ, đến kỳ thi tốt nghiệp, ông được phép dự thi cùng với 40 học sinh khác, và đă đỗ thứ 12 khi mới 11 tuổi. Nhờ được đặc cách là học sinh chính thức của trường, nên ông được cấp học bổng để theo học trường thông ngôn (Collège des Intreprêtes) niên khóa 1893-1895, và đă đỗ thủ khoa.
Năm 1896, 14 tuổi, ông làm thông ngôn ở Ṭa sứ Lào Cai. Ở đây, ông tự học thêm tiếng Anh và tiếng Hoa.
Năm 1902-1905, ông chuyển về Ṭa sứ Hải Pḥng và Bắc Giang. Thời gian này ông làm cộng tác viên cho tờ Courrier d’Hai Phong (Thư tín Hải Pḥng) và tờ Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương).
Được Công sứ Bắc Giang Hauser đánh giá rất cao về tài mẫn tiệp và khả năng nói tiếng Pháp của ông, nên đặc cách cho ông làm Chánh văn pḥng. Khi viên quan này được cử làm Đốc lư Hà Nội, ông cũng được đi theo.
Dưới thời Toàn quyền Beau, nhờ sự giúp đỡ của Hauser, Nguyễn Văn Vĩnh cùng với các bạn đồng chí hướng, lần lượt làm đơn xin thành lập Hội Trí Tri (Hà Nội), Hội Dịch sách, Hội giúp đỡ người Việt đi sang Pháp du học, Đông Kinh nghĩa thục (ông là người thảo điều lệ, viết đơn xin phép, và sau đó là giáo viên tiếng Pháp của trường).
Năm 1906, ông cùng Hauser sang Pháp lo việc tổ chức gian hàng Bắc Kỳ tại Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Được nh́n tận mắt nền văn minh phương Tây, ông trở về nước với quyết tâm truyền bá Quốc ngữ và bài bác hủ tục phong kiến để canh tân đất nước.
Được Hauser giới thiệu, ông làm quen với Schneider, một chuyên gia nghề in sách và nghề làm báo. Khi đă quen việc, ông xin từ chức ở Phủ Thống sứ để đứng ra làm báo và làm nhà in.
Tiếp đó, ông được Schneider mời biên soạn và in ấn tờ Đại Nam đồng văn nhật báo (Tờ báo hàng ngày của nước Đại Nam chung một văn tự). Cũng trong năm này, ông là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp.
Năm 1907, sau khi ra được 722 số, tờ báo trên đổi tên là Đăng cổ tùng báo (Tập báo khêu đèn gióng trống) do ông làm Chủ bút.
Lo ngại v́ đường lối hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa trường vào tháng 11 năm 1907. Sau đó, họ c̣n cho bắt giam Phan Chu Trinh, là một trong số giáo viên của trường.
Lập tức, Nguyễn Văn Vĩnh cùng với bốn người Pháp đồng kư tên đ̣i thả Phan Chu Trinh. Việc làm này cùng với việc cho đăng báo bài Đầu Pháp chính phủ thư của Phan Chu Trinh (dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, rồi cho đăng ở phụ trương tờ Đăng cổ tùng báo), khiến Nguyễn Văn Vĩnh bị chính quyền thực dân gọi lên đe dọa.
Sau vụ Kháng thuế Trung Kỳ (tháng 3 năm 1908) và vụ Hà thành đầu độc ở Hà Nội (tháng 6 năm 1908), thực dân Pháp liền cho đóng cửa Đăng cổ tùng báo của ông, đồng thời cấm diễn thuyết, cấm lưu hành và tàng trữ các tác phẩm của trường Đông Kinh nghĩa thục.
Năm 1908, ông được bầu vào Hội đồng thành phố Hà Nội. Cùng năm này, ông xin ra tờ Notre Journal (Nhật báo của chúng ta). Báo này tồn tại được 2 năm.
Năm 1910, ông xin ra tờ Notre Revue (Tạp chí của chúng ta). Báo này ra được 12 số. Cùng năm đó, ông Sài G̣n vào làm Chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn.
Năm 1913, ông trở lại Hà Nội làm Chủ bút tờ tuần báo Đông Dương tạp chí (do Schneider sáng lập vào ngày 15 tháng 3 năm 1913). Sau đó, ông được bầu vào Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ (sau đổi làm Viện dân biểu).
Năm 1914, ông kiêm luôn chức Chủ bút tờ Trung Bắc tân văn do Schneider sáng lập.
Sau ngày 15 tháng 9 năm 1919, Đông Dương tạp chí ngừng xuất bản. Thay thế nó là tờ Học báo (tờ báo của bậc tiểu học, Trần Trọng Kim lo việc bài vở, Nguyễn Văn Vĩnh làm Chủ nhiệm). Cũng trong năm này, ông Vĩnh mua tờ Trung Bắc tân văn và cho ra hàng ngày (đây là tờ báo hàng ngày đầu tiên ở Bắc Kỳ).
Năm 1927, ông cùng với Vayrac lập tủ sách Âu Tây tư tưởng (La pensée de l’Occident), rồi tổ chức in các sách do ông dịch thuật.
Năm 1929, ông được bầu vào Hội đồng Kinh tế và tài chính Đông Dương.
Năm 1931, ông cho ra tờ An Nam Nouveau (An Nam mới). Ông làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút cho đến năm 1934.
Năm 1932, ông đi dự họp Đại Hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương tại Sài G̣n. Trong một buổi họp, ông đă thay mặt giới doanh nghiệp phản đối việc chuyển đồng tiền Đông Dương từ ngân bản vị sang kim bản vị, v́ có lợi cho ngân hàng Pháp, nhưng lại có hại cho nền kinh tế Đông Dương.
Đang họp th́ có trát của Ṭa án đ̣i tịch biên gia sản v́ ông thiếu nợ, do vay tiền lập tờ An Nam Nouveau.
Vỡ nợ, Nguyễn Văn Vĩnh phải sang Lào đào vàng và chết v́ bệnh sốt rét ác tính, trên một con thuyền độc mộc ở sông Sêbăngghi (Lào) với một chiếc quản bút trong tay, đang viết dở thiên kư sự Un mois avec des chercheurs d’or (Một tháng với những người t́m vàng, viết bằng tiếng Pháp đăng tải nhiều kỳ trên báo L’Annam nouveau), ở tuổi 54, vào đúng ngày 2 tháng 5 năm 1936.
Linh cữu Nguyễn Văn Vĩnh sau đó được đưa về an táng ngày 8 tháng 5 năm 1936 tại Hà Nội. Tại buổi lễ tang, đông đảo giới báo chí của cả ba kỳ đă đến tiễn đưa ông dưới ḍng chữ: Kinh viếng Ông tổ của nghề báo
Tác phẩm:
Theo thống kê chưa đầy đủ, những công tŕnh của Nguyễn Văn Vĩnh gồm có:
Sáng tác
Những bài luận thuyết và kư sự sau:
- Xét tật ḿnh (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 6)
- Phận làm dân (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 48)
- Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xă (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 61)
- Nhời đàn bà (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 5)
- Hương Sơn hành tŕnh (Hành tŕnh thăm chùa Hương, đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 41 đến 45)
- Một tháng với những người t́m vàng (viết dở dang).
Dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt
- Thơ ngụ ngôn của La Fontaine (Fable de La Fontaine)
- Truyện trẻ con của Perrault (Les conte de Charles Perrault).
- Mai nương Lệ cốt (Manon Lescaut), tiểu thuyết của Abbé Prévost.
- Ba người ngự lâm pháo thủ (Les trois mouquetaires), tiểu thuyết của Alexandre Dumas.
- Những kẻ khốn nạn(Les Misérables), tiểu thuyết của Victor Hugo.
- Miếng da lừa (La peau de chagrin), tiểu thuyết của Honoré de Balzac.
- Guy-li-ve du kư (Les voyages de Gulliver's), truyện của Jonathan Swift.
- Tê-lê-mặc phiêu lưu kư (Les aventures de Télémaque), truyện của Fénélon.
- Bốn vở kịch của Molière: Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois Gentilhomme), Giả đạo đức (Le misanthrope), Người bệnh tưởng (Le malade imaginaire), Người biển lận (L'avare).
- Tục ca lệ (Turcaret), kịch của Lesage .
- Truyện các danh nhân Hy lạp và La Mă (Lé vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome)của Plutarque.
Rabelais của Emile Vayrac.
- Le parfum des humanités (Sử kư thanh hoa) của Emile Vayrac.
-Chàng Gil Blax xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane), tiểu thuyết của Lesage.
Ngoài ra c̣n những bài dịch về:
- Luân lư học (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 15) và triết học yếu lược (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 28).
Dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp:
- Kim Vân Kiều tân dẫn Pháp văn (tức Truyện Kiều của Nguyễn Du). Đăng từng kỳ trên Đông Dương tạp chí' từ số 18 trở đi.
Dịch từ chữ Hán sang tiếng Pháp:
- Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích, đăng trên Đông Dương tạp chí, lớp mới, số 66-68.
Nguồn Internet
Comment